Tạo lập văn hóa phòng tránh rủi ro
Cần phải nuôi dưỡng văn hóa phòng tránh rủi ro cho tổ chức và trách nhiệm
giải trình ở mọi cấp độ trong công ty.
Từ những cuộc khủng hoảng về tính an toàn của sản phẩm đang diễn ra như vụ
thu hồi sản phẩm đậu phộng, vụ melamin trong sữa và thực phẩm vật nuôi, vi khuẩn
ecoli trong rau bina, và chất chì trong đồ chơi trẻ mỏ, chúng ta thấy có một
thách thức bao trùm mà các cơ quan đều đang phải đối mặt: Cần phải nuôi dưỡng
văn hóa phòng tránh rủi ro cho cơ quan và nghĩa vụ giải trình ở mọi cấp độ trong
công ty.
Tránh những cuộc khủng hoảng kiểu này rõ ràng luôn là thượng sách, thay vì
phải chịu tổn thất và hậu quả khôn lường khi phải đối mặt với chúng. Sự vỡ lở
của những sản phẩm khiếm khuyết luôn là một thách thức trên nhiều phương diện:
các vụ kiện tụng ở mọi cấp độ, các cuộc điều tra của chính phủ, các cuộc thẩm
vấn tìm hiểu thông tin, khảo sát kỹ lưỡng từ phía dụng cụ thông báo đại chúng,
mối quan tâm từ cộng đồng đầu tư và tiềm năng của các vụ đòi đền bù và truy vấn
tố trước luật pháp. Như chúng ta đã biết, những vụ dính líu tới tài chính có thể
gây sửng sốt dư luận - trách nhiệm với hàng tỉ đô la chưa từng có, không kể tới
hàng triệu đô la tổn phí pháp luật. Hơn thế nữa, tên tuổi và vị thế cạnh tranh
của đơn vị cũng đứng bên bờ vực thẳm.
Phát triển một chiến lược
Đứng trước những nguy cơ này, nhiều đơn vị vẫn không có cách tiếp cận thích
hợp hay có kỷ luật với quản lý rủi ro và nghĩa vụ giải trình về tính an toàn của
sản phẩm. Đó là một sai trái.
Điểm cốt tử đối với các tổ chức đó là phải xem xét phương pháp giảm thiểu rủi
ro bằng những biện pháp như một ứng dụng có tính hệ thống của "các bài học đã
được học”, hay đảm nhận thực hành rà soát quá trình đưa ra những quyết định quan
yếu có liên quan tới việc sản xuất một sản phẩm. Một doanh nghiệp cần phải được
chuẩn bị để bảo vệ từng góc cạnh của quá trình đưa ra quyết định và quá trình
hoạt động. Là một đơn vị lớn, phân quyền hay có tính chất toàn cầu, hay phụ
thuộc vào các đối tác kinh doanh, các nhà cung cấp nước ngoài hay nguồn lực mở,
không phải là lý do giảng giải cho cho những lỗ hổng kiến thức.
Tạo dựng văn hoá tránh né rủi ro và nghĩa vụ giải trình đòi hỏi quá trình
giáo dục các nhân viên ở từng cấp bậc. Không phải lúc nào trực quan cũng đúng.
Một "kỹ xảo” đó là thực hành một cuộc tập dượt dành cho các nhân sự, trong một
lớp học, về những từ ngữ mà các viên chức trong các ngành công nghiệp khác đã sử
dụng để chống lại doanh nghiệp của họ trong phòng xử án. Truyền thông nội bộ
cũng thực hiện na ná như vậy.
Nghĩ suy trước khi nói
Tình trạng tương đối phổ biến ở nhiều đơn vị là đôi khi họ rơi vào tình trạng
buộc phải giải thích những bài phát biểu dông dài nhường như bất nghĩa hoặc gây
bất hoà hoặc sự không rõ ràng, thiếu cẩn trọng trong các thư điện tử nội bộ, các
bản ghi nhớ kỹ thuật và các bản báo cáo marketing. Thậm chí các bản ghi nhớ của
các cuộc họp hội đồng cũng có thể trở nên những bản báo cáo có tiềm năng chứa
đựng nội dung dính líu tới pháp luật.
Từ ngữ sử dụng trong những bản báo cáo này có thể có rất ít hoặc không có ý
nghĩa gì khi xảy ra những vụ khủng hoảng về an toàn sản phẩm, nhưng những từ ngữ
được chọn lọc một cách nghèo nàn thái quá có thể làm biến đổi động cơ của một vụ
tranh chấp và làm trầm trọng thêm tính chất của vụ khủng hoảng. Trong những
trường hợp cụ thể, khuyến khích kiểm tra chéo một viên chức là giải pháp hợp lý
để làm minh chứng cụ thể cho thấy những từ ngữ họ đưa vào bài viết có thể dẫn
tới hiểu sai hoặc hiểu lầm như thế nào trong những năm về sau. Đây có thể là một
tỉ dụ thực dành cho tất cả các nhân viên ở mọi cấp độ trên toàn doanh nghiệp, và
đó là sự đầu tư tối thiểu để nâng cao khả năng phòng tránh rủi ro.
Trong một số trường hợp, các tổ chức đưa sản phẩm của họ vào dùng thí nghiệm.
Họ có thể khắc phục sự cố kiểm soát chất lượng, marketing hoặc các vấn đề về
khoa học, y tế để xác định liệu quá trình đưa ra quyết định của họ có thể chịu
được tính khắc nghiệt và sự rà soát kỹ lưỡng của cuộc đánh giá chéo hay
không.
Cố gắng tạo dựng tính nhất quán trong các thông điệp
Có thể cũng đáng để so sánh tính nhất quán của những tin tức truyền đi trong
và ngoài cơ quan về cùng một chủ đề nào đó. Giả như tin tức này được thực hiện
bởi những cá nhân độc lập, khách quan và có tri thức, những người kiểm tra cao
khả năng các bên nguyên tiềm năng sẽ khai khẩn bất kỳ bản báo cáo có mâu thuẫn
nào.
Đây là một phần của quá trình kiểm tra rủi ro có kỷ luật, bởi vì sự thiếu
nhất quán giữa những thông điệp truyền đi trong và ngoài doanh nghiệp có thể là
cơ sở cho những tranh chấp, khiếu năn nỉ từ phía khách hàng sau này và có thể
thậm chí dẫn tới những tổn thất khôn lường hay truy tố trước pháp luật.
Các dụng cụ quản trị, kiểm tra rủi ro sẽ dần đổi thay. Nhưng điểm chủ chốt đó
là phải đưa văn hoá phòng tránh rủi ro vào quá trình nghĩ suy của người nhân sự
một cách tự chủ. Từ ý kiến của ban quản trị, quan điểm kiểm tra và phòng tránh
rủi ro liên tục và có hiểu biết là nền móng cơ bản của công ty. Và bổn phận giám
sát quá trình phòng tránh rủi ro thuộc về ban giám đốc.
Arvin Maskin
Theo Business Week
Mai Hương biên dịch
Google sa thải nhân viên vì những lý do gì?
Giống như nhiều doanh
nghiệp khác, Google phải tuyển dùng người mới và cũng sa thải những nhân viên
không đáp ứng được đề xuất của mình. Nhưng Google sa thải nhân viên vì những lý
do gì?
chủ toạ Eric Schmidt
và cựu quản lý sản phẩm Jonathan Rosenberg của Google từng viết chung quyển sách
"How Google Works". Họ cho biết thỉnh thoảng Google cũng cần phải sa thải nhân
sự, đặc biệt khi nhân viên đó không ăn nhập với doanh nghiệp. Trong một cuộc
chuyện trò về các chiến lược quản lý nội bộ của Google, Rosenberg từng cho biết
Google liên tiếp phải tìm kiếm các "knave", từ chỉ những nhân viên tồi, những
nhân viên kiểu "xỏ lá ba que".
Đó là những nhân sự rất khó chịu, hoặc
không có ý chí khiến những nhân viên tốt bị nhụt chí theo. Rosenberg cho biết có
quá nhiều những viên chức "xỏ lá ba que" sẽ khiến đơn vị bị phá hoại, do vậy
ngăn chặn "mật độ các viên chức xỏ lá" – tức số lượng nhân sự tồi trong một
nhóm, một phòng ban – là điều rất quan trọng.
"Nếu cơ quan tồn tại những
viên chức tồi này, mọi người, kể cả những nhân viên tốt, cũng sẽ không muốn đến
làm việc vào buổi sáng", ông nói.
Nhưng một nhân sự như thế nào thì bị
Google xem là "xỏ lá ba que"?
Rosenberg cho biết, đó là những người
thường "nói dối, chế giễu, trộm cắp và hưởng thụ thành quả của người khác". Ông
còn tiết lậu thêm một đặc điểm của những nhân viên "xỏ lá" nữa, đó là "làm rò rỉ
thông báo" – đó là lý do vì sao Google có đến khoảng 48.000 nhân viên, song nhân
sự Google thi thoảng khi "ngồi lê đôi mách" với giới truyền thông về những câu
chuyện nội bộ.
Trong cuốn sách "How Google Works" có đoạn viết về những
nhân viên tồi như sau:
"tị ganh với thành công của người khác? Bạn đã trở
nên một nhân viên tồi. Hãy nhớ đến nhân vật Iago trong vở kịch nổi tiếng Othello
của nhà văn William Shakespeare, từng cảnh báo Othello về "sự ganh ganh, đó là
một con quỷ mắt xanh, nó chế nhạo ngay cả miếng thịt mà nó ăn vào.
Cướp
đoạt công lao của người khác? Đó là một viên chức tồi. Bán cho khách hàng một
thứ mà họ không cần hoặc chẳng được ích lợi gì? Đó là một nhân sự tồi. Sử dụng
lò vi sóng của doanh nghiệp để nấu bếp và không lau dọn sạch sẽ? Đó là viên chức
tồi.
Hoàng Lan
Theo
Business Insider
- Blogger Comment
- Facebook Comment
Đăng ký:
Đăng Nhận xét
(
Atom
)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét